Gương sáng

Lời thề vọng giữa non cao

Nguyễn Trung Thành 05/11/2023 - 06:08

Ở các bản làng vùng sâu vùng xa, có rất nhiều “thầy thuốc cắm bản” đã và đang hết lòng vì sức khỏe của đồng bào. Và cũng nhờ họ mà “Lời thề Hypocrat” vẫn vang vọng giữa non cao.

“Thầy thuốc cắm bản”

Trên chuyến công tác về huyện Chi Lăng - Lạng Sơn cách đây khoảng gần chục năm về trước, chúng tôi cố gắng vượt qua những con đường len lỏi giữa điệp trùng đá núi để đến được những xã vùng 3 đặc biệt khó khăn, lên tới các bản làng nằm cheo leo trên lưng núi yên ngựa. Trong tất cả những xã của huyện Chi Lăng thì có lẽ Hữu Kiên là xã xa và khó nhất.

Thời đó, ở Hữu Kiên có những bản mà tính từ đầu đến cuối chỉ lơ thơ vài nóc nhà, hầu hết đều gianh tre nứa lá, gió thổi tứ bề. Và, cũng ở cái nơi rừng xanh núi đỏ này, chúng tôi đã gặp được ông Nguyễn Văn Xứng, người dân tộc Tày, khi đó là Trạm phó Trạm y tế xã Hữu Kiên, một người thầy thuốc đã gắn bó và chăm sóc sức khỏe cho đồng bào Tày, Nùng suốt gần ba thập kỷ.

anh-bai-loi-the-vong-giua-non-cao-2.jpg
Suốt những năm công tác, thầy thuốc Nguyễn Văn Xứng đều gắn bó với đồng bào Tày – Nùng ở Chi Lăng

Ông Xứng kể, sau khi tốt nghiệp Y sỹ đa khoa, ông đã có nhiều sự lựa chọn thuận lợi cho công việc của mình. Thế nhưng, chính vì được sinh ra và lớn lên ở Hữu Kiên, mảnh đất chỉ toàn đá gan gà, ông thấu hiểu được những khó khăn, vất vả, thiệt thòi mà những đồng bào của mình phải gánh chịu. Thế là vào năm 1996, ông Xứng quyết định về đây công tác.

Lúc bấy giờ, Trạm Y tế xã Hữu Kiên còn là căn nhà tạm, đồ đạc chả có gì ngoài vài bộ bàn ghế, giường bệnh rêu cũ, trang thiết bị thì lạc hậu, lỗi thời. Mỗi lần mưa bão, gió thổi thốc thác tứ bề, ông và đồng nghiệp phải dùng áo mưa căng che, thuốc khô thì người ướt.

Đến năm 2001, chính quyền cho xây dựng được căn nhà cấp 4, kê thêm vài cái giường bệnh, ông Xứng với đồng nghiệp của mình mới thôi phải căng che mỗi khi trời mưa gió. Cả Trạm y tế có đúng 5 cán bộ, nhưng phải phụ trách 9 thôn bản nằm cách xa nhau đến… vài ngày đi bộ. Đến ngay như ông Xứng, trung bình mỗi ngày cũng phải vượt gần hàng chục km đường rừng từ nhà đến Trạm.

Sau này, khi đường xá được Nhà nước đầu tư xây dựng, việc đi lại của ông Xứng cũng đỡ vất vả hơn. Thế nhưng do địa hình phức tạp lại không ngừng bị sói mòn bởi nước lũ, nên nhiều đoạn vốn dĩ đã bé như bụng ngựa, nay còn bị nhấn thụt hẳn xuống khe sâu.

Có lần gặp ca bệnh hiểm nghèo, cần đưa lên tuyến trên, đường lụt không thể vận chuyển bằng các phương tiện như ô tô, xe máy, ông Xứng cùng đồng nghiệp phải phối hợp với gia đình họ thay nhau khiêng, cáng, thậm chí là cõng bệnh nhân xuống viện.

Đến nơi, ông lại phải chạy đôn chạy đáo làm các thủ tục, giấy tờ. Bởi, phần lớn người nhà của bệnh nhân “cả đời không bước qua cái cửa rừng”, đến những nơi đông người và nhiều lạ lẫm như bệnh viện, họ chỉ biết… dáo dác nhìn!

anh-bai-loi-the-vong-giua-non-cao-1.jpg
Ông Xứng (ngoài cùng bên trái) trò chuyện với PV

Sau gần ba mươi năm làm công tác khám chữa bệnh, ông Xứng đúc rút ra rằng, cái khó nhất của những người “thầy thuốc cắm bản” như ông, đó là làm sao vận động được bà con tin và đến với mình. Bởi ở Hữu Kiên, từ thuở sơ khai, hai dân tộc Tày – Nùng đã có rất nhiều nghi lễ, phong tục truyền thống ảnh hưởng sâu sắc tới tín ngưỡng được truyền từ đời này qua đời khác. Trong đời sống tâm linh của họ, những thế lực siêu hình luôn có chỗ ngự trị. Đối với những sự vật, hiện tượng thiên nhiên mà khả năng của con người không lí giải được hoặc không có câu trả lời thỏa đáng, họ đều coi là thánh thần, ma quỷ.

Mỗi khi người thân có bệnh, đồng bào Tày, Nùng thường vời thầy mo, thầy cúng đến nhà để bắt “ma” chứ ít khi tìm đến khám chữa bệnh tại những cơ sở của nhà nước. Thế cho nên, ngoài công việc chuyên môn, những người thầy thuốc như ông Xứng phải kiêm luôn công tác tuyên truyền, vận động đồng bào thôi tin vào những niềm tin mê mụ. Bởi, từ những niềm tin mê mụ đó, đã xảy ra không ít những bi kịch đau lòng.

Dạy chữ - Cứu người giữa rừng xanh núi đỏ

Cũng giống như Hữu Kiên, khắp vùng Quan Sơn (Thanh Hóa) ngước về tứ phía đều là núi rừng, cây cối chen nhau với đá sỏi từng vốc đất, rất nhiều hộ dân còn phải "đứng" trong danh sách hộ nghèo. Có gia đình sống nhờ chủ yếu vào vài nương lúa. Lúa nương trông cả vào ông giời. Năm nào mưa thuận gió hòa, đồng bào có gạo, có ngô ăn đủ trong nửa năm, nửa năm còn lại thì trông cả vào rừng. Có nghĩa, đến ngay cả chuyện căng cái bụng cũng trông vào ông giời, đủ ăn cũng đã là một niềm mơ ước.

Cuộc sống của đồng bào là chuỗi những mưu sinh không buồn, không vui, cứ thế chảy trôi. Miếng cơm manh áo thúc vào sườn họ đau và bức bối đến mức ước mơ đôi khi chỉ là ngày 2 bữa cơm no. Và khám chữa bệnh, vì thế cũng là thứ gì đó xa xỉ.

Sinh năm 1964, sau khi tốt nghiệp trường sư phạm, Thầy thuốc – Thầy giáo Phạm Thế Tư (xã Sơn Thủy, huyện Quan Sơn, tỉnh Thanh Hóa) xin về quê hương Quan Sơn giảng dạy. Vậy là hơn hai chục bản vùng cao của hai xã Na Mèo và Sơn Thủy, trong đó có những bản đặc biệt khó khăn như Khà, Xía Nọi, Mùa Xuân, Cha Khót... đều đã in dấu chân, quen giọng giảng bài của thầy.

Ngoài chuyện dạy chữ cho con em đồng bào, thầy Tư còn kiêm thêm cả nghề thầy thuốc. Lý do là bởi, ngày xưa giao thông đi lại khó khăn, từ bản Mùa Xuân muốn đi xe máy xuống trung tâm xã mất nhiều thời gian, nếu gặp mưa thì càng khó di chuyển trên cung đường lầy lội, cheo leo, hiểm trở... nên công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân trong bản chưa được đáp ứng. Nhiều trường hợp ốm nặng phải dùng cáng khiêng đi bộ mất cả ngày mới tới Trạm y tế xã, đến nơi thì đã không kịp cứu hoặc bị di chứng nặng nề.

anh-bai-loi-the-vong-giua-non-cao-3.jpg
Vườn thuốc của Thầy giáo – Thầy thuốc Phạm Thế Tư

Từng được đào tạo kiến thức y tế học đường, trước thực tế đó, thầy Tư đã cần mẫn tìm các loài thảo dược từ trên núi về trồng để chữa bệnh miễn phí cho mọi người. Vườn thuốc nam ở trường và ở nhà riêng của thầy lúc nào cũng xanh um cây thuốc.

Ba tháng hè, thầy còn tranh thủ tăng gia, dành dụm tiền để mua dăm loại thuốc tây thiết yếu để đến năm học mới mang lên trường, phòng khi đồng nghiệp, học sinh hoặc dân bản ốm đau thì cứu chữa. Dù đi xa hay gần, dù bệnh nặng hay nhẹ thì người bệnh cũng được hưởng sự chăm sóc, thăm khám miễn phí từ thầy.

Cùng với việc chữa bệnh, thầy luôn giải thích cho bà con hiểu và biết cách ăn uống hợp vệ sinh, nhằm phòng tránh các bệnh thường gặp. Thầy Tư tâm sự: "Hồi mới chữa bệnh, tôi cũng lo lắng vì phong tục tập quán mỗi dân tộc mỗi khác. Chữa khỏi được cho người nào là vui và tích lũy thêm kinh nghiệm. Nhưng cũng có những lúc gặp người bệnh nguy kịch, mình phải trao đổi để người thân của bệnh nhân hiểu rõ, có vậy bà con mới thông cảm cho mình".

Suốt mấy chục năm đi dạy tại các bản vùng sâu, chính thầy Tư không nhớ là mình đã chữa khỏi bệnh cho bao nhiêu người, nhưng lại thuộc hàng trăm con đường mòn, lối tắt băng ngang rừng núi để đến các điểm bản. Thầy bảo phải nhớ để mỗi khi có người bệnh cần cứu chữa, thì phải tìm đường ngắn nhất, nhanh nhất để đến nơi, chứ chỉ chậm vài phút là người bệnh sẽ khó cứu. Nhiều lúc đang dạy thì có người gọi điện, thầy lại nhờ đồng nghiệp đứng lớp giúp rồi bươn bả mang túi thuốc đi đến nhá nhem với về, người phờ phạc vì mất sức.

abc.jpg.png
Một góc Sơn Thủy

“Mệt nhưng phải cố thôi. Vì bà con nghèo quá, sơn lam chướng khí thế này, sức người dễ kiệt. Ngoài việc điều kiện về y tế, thuốc men hạn chế, nhiều người dân vẫn còn tin vào các hủ tục như cúng ma, trừ tà, nên nhiều khi bệnh nhẹ cũng biến chứng thành nặng...”, thầy Tư chia sẻ.

Anh Thao Lâu Pó, người xem thầy Tư như ân nhân, kể: "Hai bố con tôi mang ơn thầy giáo Tư nhiều lắm. Không có thầy, hai bố con tôi giờ đã bị mù. Nhờ bài thuốc xông mắt bằng lá rừng của thầy mà giờ tôi nhìn rõ tất cả mọi thứ, không bị đau rát và đỏ rực như trước nữa. Nhờ vậy, con trai tôi lại tiếp tục đi học và không bị bạn bè xa lánh. Khỏi bệnh, tôi mang con lợn bé xuống tạ ơn thầy, thầy không lấy mà chỉ ra điều kiện phải cho con học hành đến nơi đến chốn".

Một trong những điều làm thầy Tư trăn trở và ám ảnh, lo lắng nhất là “vấn nạn” tự tử bằng lá ngón của đồng bào Mông. Đến giờ, “người thầy thuốc bất đắc dĩ” này cũng không thể nhớ hết được mình đã gặp phải bao nhiêu ca “cưỡi lá về trời”.

Chị Thao Thị M, ở bản Xía Nọi, một bệnh nhân của thầy Tư thẹn thùng kể: "Lúc đó, tôi tưởng mình sắp chết, thầy Tư chạy đến pha một loại nước đặc sền sệt rồi lấy thìa móc họng tôi ra dốc nước vào cổ họng tôi, một lúc sau, tôi nôn hết lá ngón ra ngoài. Sau đó, thầy cho tôi uống nước chanh đường để rửa dạ dày. Thầy còn dặn chồng tôi phải nấu cháo đỗ cho tôi ăn để hồi sức. Tôi đã thoát chết nhờ có thầy Tư, tôi cảm ơn thầy rất nhiều và sẽ không bao giờ dại dột ăn lá ngón nữa"...

Cứ thế, tháng này qua năm khác, những “thầy thuốc cắm bản” như ông Xứng, như thầy Tú vẫn âm thầm lặng lẽ, tận tâm tận lực với nghề. Sau mấy chục năm dằng dặc chữa bệnh, cứu người, bàn chân của họ đã đặt lên hầu khắp các ngôi nhà của đồng bào từ núi cao đến thung sâu ở mảnh đất mà mình sinh sống. Đến giờ, cả ông Xứng và thầy Tú đã thực sự trở thành những "người con của bản''. Và cũng nhờ những người như họ mà “Lời thề Hypocrat” vẫn còn vang vọng mãi giữa mây xanh.

(0) Bình luận
Nổi bật
Thủ tướng: Trẻ em là hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của đất nước
Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ đầu tư cho trẻ em là đầu tư cho tương lai đất nước; làm tốt công tác này là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể, gia đình, nhà trường, toàn xã hội.
Tin mới
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO