Không chỉ đa dạng, lễ hội của cộng đồng các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh đã ít nhiều phản ánh được những ước vọng, sự cầu nguyện của con người đến các đấng thần linh về một cuộc sống ấm no. Đó là nhận định được các chuyên gia đưa ra khi bàn về việc nhận diện giá trị và hướng bảo vệ các lễ hội nói chung và lễ hội của cộng đồng dân tộc thiểu số nói riêng.
Vùng núi Thừa Thiên Huế hiện có các cộng đồng dân tộc thiểu số bản địa Tà Ôi, Cơ Tu, Bru - Vân Kiều, Pa Cô, Pa Hy. Ngoài ra, do chính sách định cư và các hình thức hôn nhân làm dâu, ở rể cho nên còn có sự hiện một số dân tộc khác như Mường, Tày, Thái… Chính điều này ngoài tạo nên sự đoàn kết còn làm nên bản sắc văn hóa truyền thống thông qua các lễ hội.
Hòa nhập chứ không hòa tan
Theo nghiên csứu, thống kê của các chuyên gia, có nhiều lễ hội đặc sắc được lưu giữ, bảo tồn cho đến ngày hôm nay như Aza Koonh, lễ cúng rẫy, lễ cúng lúa mới, lễ Ariêu Car, tết độc lập… Và trong số đó, lễ hội Aza Koonh là lễ hội miền núi duy nhất trên địa bàn tỉnh được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Trần Khánh Phong, người từng có nhiều năm nghiên cứu văn hóa các dân tộc trên địa bàn tỉnh cho rằng, các lễ hội của các đồng bào dân tộc mang tính phổ biến trong đời sống văn hóa của đồng bào. Trong các lễ hội còn có rất nhiều lễ nghi lớn, nhỏ khác nhau đã góp phần làm giàu bản sắc văn hóa vốn có của cộng đồng Tà Ôi, Cơ Tu ở Nam Đông và A Lưới xưa nay. Trong đó, nhấn mạnh đến lễ hội của người Tà Ôi, nhà nghiên cứu này đưa ra nhận định, được hình thành từ môi trường xã hội đặc biệt, liên quan đến môi trường sinh thái, tín ngưỡng, văn hóa, địa vị xã hội và tiềm năng kinh tế, nhân lực của làng, dòng họ, gia đình.
Cuộc sống của người Tà Ôi gắn bó với nương rẫy, các hoạt động kinh tế luôn phụ thuộc vào nguồn lợi của tự nhiên, phải thường xuyên đối mặt với thiên tai và thú dữ để có cái ăn, cái mặc. Từ đó, hình thành nên những lễ hội nhằm mục đích cầu cúng, tạ ơn các thần linh đã che chở cho cộng đồng sau mỗi vụ mùa, sau mỗi năm bằng những lễ hội lớn, nhỏ khác nhau. Tùy theo tính chất của công việc, mùa vụ, môi trường sinh sống, canh tác, buôn bán trao đổi hàng hóa mà người Tà Ôi có các lễ hội để cúng tế thần linh. Các yếu tố khác như ẩm thực cũng như nghệ thuật diễn xướng dân gian trở thành điểm nhấn, tạo nên sự đặc sắc cho lễ hội.
Ông Phong nhấn mạnh đến lễ hội Aza Koonh - là lễ lớn nhất được tổ chức với quy mô toàn vel (làng) và thường gắn với lễ tục đâm trâu. Tuy nhiên, ngày nay tục đâm trâu đã bỏ hẳn. “Điều này cho thấy yếu tố nội sinh rất mạnh của cộng đồng Tà Ôi, họ sẵn sàng dâng lên thần linh những gì tốt đẹp nhất để đổi lấy ấm no, sức khỏe, mùa màng mưa thuận gió hòa. Và cũng chính sự tác động của nhiều yếu tố ngoại lực mà lễ hội của người Tà Ôi cũng có nhiều thay đổi trên tinh thần hòa nhập chứ không hòa tan”, ông Phong nhận định.
Lễ hội là một phần của cuộc sống tinh thần
Thường các lễ hội của đồng bào dân tộc thiểu số ở Thừa Thiên Huế được tổ chức vào khoảng thời gian nông nhàn, sau mùa rẫy, nhằm đáp ứng những nhu cầu sinh hoạt văn hóa tinh thần cũng như tạo ra những hình thức vui chơi, nghỉ ngơi, thư giãn.
PGS.TS. Nguyễn Văn Mạnh (Trường đại học Khoa học, Đại học Huế) cho rằng, một trong những yếu tố góp phần cho sự tồn tại và phát triển của các loại hình lễ hội là tính tự giác của mọi thành viên trong làng, bản rất cao. Điều này bắt nguồn từ quan niệm tín ngưỡng tâm linh. Theo ông Mạnh, thời gian tổ chức các lễ hội của đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Thừa Thiên Huế thường theo lịch thời vụ của kinh tế nương rẫy và cuối năm. Không gian diễn ra lễ hội được tổ chức ở sân nhà chung cộng đồng, bãi đất bằng phẳng ở giữa làng, hoặc bãi đất tương đối bằng phẳng ở bìa rừng, gần làng, gần con suối.
Tùy lễ hội sẽ có rất nhiều nghi thức tuân theo trình tự nhất định, đòi hỏi phải có sự chuẩn bị chu đáo, kỹ lưỡng và sự đồng lòng, hợp sức của cả cộng đồng, nhằm làm cho lễ hội diễn ra một cách tốt nhất, thu hút nhiều người tham gia, đồng thời thỏa mãn lòng mong mỏi, chờ đợi của mọi người. Người tham gia lễ hội, đặc biệt là những thành viên trực tiếp tham gia dâng lễ vật, cúng tế, cũng như thực hiện các lễ thức trong lễ hội phải có trang phục thổ cẩm, các thành viên khác phải ăn mặc chỉnh tề, trang nghiêm.
“Lễ hội là phần lắng của cuộc sống tinh thần, chính vì vậy, ngay cả khi điều kiện xã hội thay đổi, nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa hiện đại đang ngày càng phát triển, sinh hoạt lễ hội truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số tỉnh Thừa Thiên Huế không vì thế mất đi. Tuy nhiên tính chất tâm linh, sự thăng hoa của lễ hội có phần bị mai một”, ông Mạnh khẳng định. Vì thế, vị chuyên gia này đề nghị cần tiến hành tổng kiểm kê, nghiên cứu đánh giá, số hóa thực trạng, giá trị hệ thống lễ hội của đồng bào các dân tộc thiểu số Thừa Thiên Huế. Từ đó có cơ sở xây dựng đề án bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội của cư dân Thừa Thiên Huế đề nghị cấp có thẩm quyền phê duyệt.