Đời sống xã hội

Sự hồi sinh của một tộc người

T.Thành 09/10/2023 - 09:26

Trong 54 dân tộc anh em, Si La được xem như là một trong những dân tộc bé nhỏ nhất Việt Nam với số dân chưa đến 1.000 người. Cuộc sống khắc nghiệt nơi núi cao rừng thẳm đã có lúc đẩy họ đến bờ vực suy thoái giống nòi. Thế nhưng, dưới sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự chung tay của cộng đồng, cuộc sống của đồng bào Si La đang ngày một tốt đẹp hơn.

Và, dẫu nhỏ bé, nhưng những “người anh em” ấy cũng đã có nhiều đóng góp quan trọng trong việc giữ gìn an ninh trật tự và bảo vệ an ninh Tổ quốc. Những giá trị văn hoá bao đời của họ được lưu giữ và phục dựng, dệt thêm gấm hoa cho bức tranh văn hoá đa sắc màu của đất nước. Họ mãi là một bộ phận không thể tách rời trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam.

Bước ra từ rừng già

Người Si La thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng – Miến và phần lớn sinh sống ở Lào. Người Si La kể rằng, khoảng gần 150 năm trước, các dòng họ Pờ, Hù, Lỳ, Giàng bên dòng Nậm U nước Lào di cư về phía đông. Vào đến đất Việt, người Si La men theo sông Nậm Mức về sinh sống ven cánh rừng nguyên sinh phía Tây Bắc huyện Mường Tè tỉnh Lai Châu.

Theo thống kê, người Si La ở Việt Nam sinh sống chủ yếu tại ba bản Seo Hay, Sì Thâu Chải (thuộc xã Can Hồ, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu) và Nậm Sin (xã Chung Chải, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên), với dân số có chưa tới 1000 người (Theo cuộc tổng điều tra dân số vào năm 2019 thì tổng số người Si La ở Việt Nam là 909 người).

Vào những năm đầu của thế kỷ 21, người Si La có tới 80% hộ thuộc diện đói nghèo, cứ 10 người thì có một người bướu cổ, 73% trẻ em bị suy dinh dưỡng, tỷ lệ trẻ sơ sinh bị tử vong chiếm tới 10%. Do sinh sống biệt lập tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết diễn ra phổ biến nên nguy cơ suy giảm giống nòi của dân tộc Si La luôn hiển hiện.

anh-bai-su-hoi-sinh-cua-mot-toc-nguoi-noi-bien-ai-1.jpg
Lễ cúng bản của dân tộc Si La

Nói về những cái khó khăn vất vả của đồng bào, Bộ đội Biên phòng là người hiểu rõ nhất. Nói về cái đói, cái nghèo trước đây thì người già là nhớ nhất, như vợ chồng ông Lỳ Chà Che và bà Hù Cố Bá ở xã Chung Chải, huyện Mường Nhé, Điện Biên.

Bà Bá kể, xưa kia, nhà của người Si La chủ yếu được dựng bằng tre nứa, lợp bằng lá cây, phát được mảnh nương, chọc lỗ trên đất, gieo hạt lúa xuống thì phó mặc cho trời, 4-5 tháng sau mới có hạt thóc để ăn, con cái đẻ ra thì tự trông nhau mà lớn, đói quá thì ra suối bắt cá hoặc vào rừng hái măng để ăn.

“Ngày xưa chúng tôi lấy nhau, mới 14-15 tuổi. Lúc ấy khổ lắm. Nhà ít người nên phải đẻ nhiều, đẻ nhiều nhưng cũng mất nhiều, không nuôi được. Hai vợ chồng cứ phát rừng, làm nương, đói quá thì đào củ măng, củ mài, hái rau ăn. Ngày xưa đói lắm, không biết đâu mà kể”, bà Hù Cố Bá nhớ lại.

Những ngày khó nhọc đó giờ chỉ còn trong ký ức của bà Bá mà thế hệ sau chỉ còn nghe kể lại. Giờ, được sự hỗ trợ của Chính phủ, tỉnh Điện Biên triển khai Dự án hỗ trợ phát triển dân tộc Si La, tạo tiền đề để bản Nậm Sin thay da đổi thịt. Dù chỉ có 40-50 hộ dân nhưng bản được đầu tư xây dựng một con đường giao thông, nhiều hộ gia đình được hỗ trợ làm nhà “ba cứng”, bà con được tập huấn các mô hình sản xuất, hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt. …

Để nhanh chóng ổn định tình hình và giúp bà con khôi phục sản xuất, phát triển kinh tế, Bộ chỉ huy Biên phòng tỉnh Điện Biên đã cử một đội công tác tăng cường về bám dân, giúp dân phát huy tối đa những hiệu quả mà dự án đã mở ra.

Với hạ tầng sẵn có, cán bộ nông nghiệp thì hướng dẫn thời vụ, tập huấn kỹ thuật canh tác, phòng trừ sâu bệnh và dịch hại cũng như lựa chọn con giống, vật nuôi cho phù hợp với từng hộ gia đình; bộ đội thì giúp bà con sửa sang chuồng trại ruộng vườn, làm sạch môi trường, tổ chức khám chữa bệnh, phát thuốc cho bà con.

Sau hai năm, Nậm Sin đã có những thay đổi rõ rệt ngay cả trong nếp tư duy cũng như sinh hoạt của người dân: đường làng ngõ xóm phong quang, bệnh ở người, bệnh gia súc không phải mời thày cúng nữa.

Từ bỏ lối canh tác “chọc lỗ tra hạt”, giờ người Si La đã quen với cái cày, con trâu và trồng cây lúa nước. Đó là nhờ Bộ đội biên phòng đã khai hoang, dạy bà con cày bừa, cấy hái, hướng dẫn cho bà con cách chăm sóc cải tạo đất, cách chọn giống, bón phân. Đến nay, thì bà con đã biết làm lúa hai vụ, đã biết làm thủy lợi dẫn nước về đồng.

Theo ông Hù Chà Thái, nguyên Chủ tịch UBMTTQ xã Chung Chải, trước đây bà con chưa va chạm xã hội, chưa nắm bắt được khoa học kỹ thuật nên còn nghèo đói. Giờ đây, khi bà con đã am hiểu về xã hội, được Bộ đội biên phòng hướng dẫn nên đời sống thay đổi, có nhiều gia đình giàu lên.

anh-bai-su-hoi-sinh-cua-mot-toc-nguoi-noi-bien-ai-2.jpg
Phụ nữ Si La lấy nước về chuẩn bị cho Lễ mừng cơm mới

Sức sống mãnh liệt

Rời Nậm Sin, chúng tôi tìm đến với Can Hồ (huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu), nơi còn lưu dấu một trong những lễ hội đặc sắc nhất của người Si La, đó là Lễ cúng bản. Ông Hù Chà Khao, trưởng tộc họ Hù của người Si La ở bản Seo Hay kể rằng, mỗi dịp Lễ cúng bản, người Si La sẽ dựng lên một chiếc cổng, ngay ở lối vào của bản nhằm ngăn điềm dữ, mang điềm lành cho dân.

Trên cái cổng này, ngoài các phên mắt cáo ngăn điều dữ; người Si La còn bó lá dong riềng, bện cỏ tranh, móc mắt xích nan tre; cùng hàng loạt các loại gươm, dao, tên, súng bằng gỗ trang trí khắp xung quanh.

“Khi làm lễ cúng bản thì chỉ có đàn ông Si La được phép tham dự. Đồ tế lễ gồm chó vàng và gà ác. Tiết của vật hiến sinh tưới lên các biểu tượng này. Sau đó đầu của các con vật sẽ được chôn dưới cổng để ngăn trừ điều dữ bước vào trong bản”, ông Hù Chà Khao cho biết.

Ở Seo Hay, nhà cửa truyền thống của người Si La mà chúng tôi bắt gặp là những ngôi nhà trệt được làm 4 mái, 2 gian, 2 chái và chỉ có một cửa ra vào gọi là “lớ cớ”. Khung nhà được làm bằng gỗ, mái bằng khung tre với các bức vách được thưng bằng gỗ, hoặc phên đan bằng nứa. Nhiều nhà có treo “Plạ” một hình thức bùa kiêng giống “ta leo”. Đặc biệt, ở người Si La, nhà nào có hai cửa thì đó chính là nhà của trưởng họ tộc.

anh-bai-su-hoi-sinh-cua-mot-toc-nguoi-noi-bien-ai-3.jpg
Một góc Nậm Sin

Người Si La theo chế độ phụ hệ nên người phụ nữ chịu nhiều thiệt thòi. Theo luật tục, khi nhà có khách, phụ nữ Si La không được phép ăn cơm cùng mâm trên nhà. Trang phục của họ cũng có rất nhiều điều lý thú. Chiếc áo bó thân màu đen có những đường chỉ màu thêu nổi, cúc cài nách và được trang trí thêm hàng chục đồng tiền xu trước ngực áo, tạo nên một nét đặc trưng thật nổi bật. Váy mặc dài đến mắt cá chân với phần cạp váy gồm tấm khăn màu xanh khâu mép lặn vào trong nối với thân váy.

Gần đây, phụ nữ Si La còn khâu thêm các đường vải ở ống tay và gấu áo. Riêng thiếu nữ chưa chồng thì đội khăn trắng với vải ghép màu đỏ. Còn với phụ nữ có chồng phải vấn khăn đen hoặc xanh có hình hai múi sừng.

Có lẽ chính bởi cách búi tóc này mà người Si La có câu hát rằng: “Khi con sâu chít chưa lớn, anh để cho con sâu chít nó lớn. Khi mái tóc em chưa dài, anh đợi đến khi mái tóc em dài. Tóc em dài đủ bới nên sừng. Để anh cưới em làm vợ…”

Không chỉ giỏi thêu thùa may vá, phụ nữ Si La còn rất giỏi múa và hát các làn điệu dân ca của dân tộc mình. Đến giờ, người Si La còn gìn giữ được rất nhiều điệu múa cổ truyền và thường được trình diễn trong các lễ hội như cầu mùa, vào mùa. Các bài múa cũng như các động tác múa thường mô phỏng hiện tượng thiên nhiên hay trong lao động và có sự giao thoa cùng ảnh hưởng lớn từ các dân tộc xung quanh như Hà Nhì, Thái, Mông…

“Này các anh em ơi. Hãy cùng đi phát nương. Để ta còn đốt nhé. Rồi tra hạt, làm cỏ. Cho mùa năm nay nhiều. Cho năm tới nhiều hơn. Cho đời ta no ấm…”. Ông Hù Chà Khao vừa hát vừa đưa chúng tôi đi thăm cánh đồng mới cấy bên sườn dốc sông Đà. Mấy chục hộ dân nơi đây chỉ sống nhờ hai vụ lúa, một vụ bắp trên gần chục ha ruộng này. Ước mơ no ấm trong câu dân ca ngày nào giờ vẫn còn thấm đẫm trong từng lời nói của ông Khao khi kể cho chúng tôi về những ngày Lễ mừng cơm mới.

Những ngày đó, ngoài các lễ vật như sóc, cua, cá, dưa, gừng, khoai sọ được chuẩn bị hiến tế, người Si La còn gặt trước lúa chín về hong khô giã gạo làm cơm mới. Dù lễ cơm mới chỉ tổ chức trong nhà trưởng họ nhưng thực chất lại mang tính chất và quy mô của cả cộng đồng. Và khi ấy, người Si La vui say bất tận trong điệu múa lời ca. Cuộc sống như vừa mới bắt đầu.

Trong suy nghĩ của những người khách lạ như chúng tôi, Si La, những con người nhỏ bé ấy tuy ước mơ rất đỗi bình dị, song khát vọng sinh tồn của họ lại mãnh liệt chả khác gì dòng Đà giang bên nhà ngày đêm cuồn cuộn thác lũ.

(0) Bình luận
Nổi bật
Thủ tướng: Trẻ em là hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của đất nước
Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ đầu tư cho trẻ em là đầu tư cho tương lai đất nước; làm tốt công tác này là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể, gia đình, nhà trường, toàn xã hội.
Tin mới
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO