Cơ Ho là dân tộc sinh sống lâu đời ở Tây Nguyên. Địa bàn cư trú của họ chủ yếu ở tỉnh Lâm Đồng, dọc Quốc lộ 20, ngoại vi thành phố Đà Lạt. Cũng như một số dân tộc anh em trên vùng đất bazan, người Cơ Ho vẫn giữ được nhiều phong tục cổ, trong đó phải kể đến các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian.
Đa dạng các sắc dân
Dân tộc Cơ Ho có nhiều tên gọi và cách viết khác nhau, như Cờ Ho, Kơ Ho hoặc Kờ Ho, K’Ho. Tuy nhiên, Cơ Ho được xem là tên gọi và cách viết chính thống. Ngôn ngữ của dân tộc này thuộc ngữ chi Bana và ngữ hệ Nam Á.
Với dân số không đông, nhưng người Cơ Ho được chia thành nhiều nhóm, dựa trên địa bàn, ngôn ngữ và tập quán sinh hoạt. Ví dụ như Cơ Ho Srê là nhóm đông nhất, tiếp đến là Cơ Ho Chil. Trước đây, người Cơ Ho Chil cư trú rải rác trên vùng núi cao, thuộc thượng lưu sông Krông Knô (Bắc và Tây Bắc cao nguyên Lang Biang).
Sau này, do tình trạng du canh, du cư, họ chuyển về phía Nam – vùng Bắc và Ðông Bắc Ðà Lạt – kề cận với địa bàn cư trú của nhóm người Cơ Ho Lạt, người Chu Ru và Raglai. Hiện nay, họ cư trú trên địa bàn Ðức Trọng, Lâm Hà, Lạc Dương, Ðôn Dương – những huyện phụ cận của Thành phố Ðà Lạt.
Còn nhóm Cơ Ho Lạt lại cư trú tập trung ở xã Lát và một số thung lũng quanh thành phố Ðà Lạt. Do có điều kiện giao lưu, tiếp xúc với người Kinh nhiều thế hệ, nên đời sống kinh tế nhóm này có những tiến bộ đáng kể so với nhiều nhóm Cơ Ho khác.
Trong khi đó, nhóm Cơ Ho Nộp thì cư trú ở phía Nam Di Linh, ven đường Di Linh - Phan Thiết. Họ sống sen cài với người Chăm nên một số phong tục có sự tiếp biến, đó là ăn trầu, trồng trầu, cau xung quanh nơi ở.
Nói chung, dù nhóm nào hay sinh sống ở đâu đi chăng nữa thì người Cơ Ho đều xem sản xuất nông nghiệp là kinh tế mũi nhọn. Tuy nhiên, ở mỗi nhóm, dựa vào thổ nhưỡng và khí hậu, họ có những phương thức canh tác khác nhau. Người Cơ Ho Srê, trồng lúa nước trong các thung lũng hẹp. Các nhóm khác thì làm nương rẫy với các công trình như lúa nương, ngô, sắn. Nhóm Cơ Ho làm rẫy thường sống du canh, du cư, để lại nhiều hệ lụy về sự bạc màu của nương rẫy, phá rừng và bào mòn độ phì nhiêu của đất.
Ngoài lúa, ngô, sắn, họ còn trồng xen trong nương rẫy của mình bầu, bí, mướp, đậu… Người Cơ Ho cũng biết làm vườn với các loại cây ăn trái như mít, chuối, đu đủ, bơ.. và chăn nuôi gia súc. Họ nuôi trâu, bò, lợn, dê, gà, vịt… theo phương thức thả rông. Những thực phẩm ấy hỗ trợ cho bữa ăn hàng ngày và phục vụ cho những dịp lễ hội với những nghi lễ hiến tế thường xuyên trong năm.
Ngoài nông nghiệp trồng lúa nước và nương rẫy, người Cơ Ho cũng giống rất nhiều dân tộc khác, có kinh tế săn bắt, hái lượm những của cải từ rừng, với sự khai thác triệt để. Ðó là nguồn thực phẩm hỗ trợ đắc lực cho kinh tế nông nghiệp rất bấp bênh của họ, khi thiên nhiên thất thường đe dọa. Nghề thủ công như đan lát, rèn, gốm, dệt… chỉ là để tự cấp.
“Mỗi nhóm người Cơ Ho lại có một thế mạnh khác nhau. Ví dụ như người Cơ Ho Chil có nghề dệt và một vài nhóm khác có nghề làm gốm rất nguyên thủy, không bàn xoay, không nung trong lò...”, già làng Duôm Dai K’Bát ở thị trấn Đinh Văn, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng, chia sẻ.
Cũng theo già K’Bát thì công cụ sản xuất của người Cơ Ho truyền thống rất thô sơ, lạc hậu như rìu, chà gạc để chặt cây. Ðó là đoạn tre già làm cán và một đầu tra lưỡi sắt. Gậy chọc lỗ tra hạt. Người Cơ Ho Chil còn có thêm chiếc gậy vừa có chức năng chọc lỗ, vừa có chức năng tra hạt, có tên là P’hal. Ðó là công cụ cán gỗ, lưỡi sắt dài 28cm, rộng 3-4cm.
Còn người Cơ Ho Srê, do canh tác ruộng nước, nên bộ công cụ của họ có cuốc, cầy, bừa, Koc (trang gỗ để mặt ruộng bằng phẳng). Cuốc, cầy, bừa truyền thống của người Cơ Ho Srê hoàn toàn bằng gỗ, sau này được tra lưỡi sắt. Sức kéo cầy, bừa đều bằng trâu đôi (2 con kéo cho một chiếc cầy hoặc một chiếc bừa).
Trang phục của đàn ông là khố bằng vải rộng, dài 1,5m – 2m, có hoa văn trải dọc. Phụ nữ cuốn vải quanh người rồi giắt cạp, tạo thành váy. Váy có nền đen, có diềm hoa văn trắng. Nếu trời lạnh, họ khoác thêm chăn ra ngoài. Phụ nữ đeo vòng cổ, vòng tay, cườm và khuyên căng tai làm đồ trang sức.
Nhà ở của người Cơ Ho là nhà sàn dài bằng gỗ, hai mái uốn cong, lợp bằng cỏ tranh, có liếp nghiêng ra phía ngoài và cũng thưng cỏ tranh để chống lạnh. Trước cửa ra vào là cầu thang lên xuống, vách đối diện với cửa để ché, giỏ đựng đồ đạc và bàn thờ. Mọi sinh hoạt như ăn uống, nghỉ ngơi, tiếp khách đều diễn ra quanh bếp lửa trong nhà.
Trong xã hội truyền thống, người Cơ Ho cấm tuyệt đối hôn nhân cùng huyết thống. Con chú, con bác, con dì không được lấy nhau, nhưng con cô, con cậu lại được kết hôn theo luật tục. Sau khi vợ chết, người chồng có thể kết hôn với em gái vợ và ngược lại, người vợ góa có thể kết hôn với em trai của chồng, nếu đôi bên ưng thuận.
Nhiều sinh hoạt văn hóa cổ truyền
Cũng như một số dân tộc anh em trên vùng đất bazan, người Cơ Ho vẫn giữ được nhiều sinh hoạt văn hóa cổ truyền. Trong đó, dân ca là một trong những loại hình nghệ thuật dân gian đặc sắc đóng vai trò quan trọng và không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người Cơ Ho, nhất là nhóm Cơ Ho Chil.
Già làng K’Bát cho biết: “Ngay từ khi mới lọt lòng, đứa trẻ đã được nghe những lời ru ngọt ngào của mẹ. Khi lớn lên ở lứa tuổi 15 - 16, nam nữ Cơ Ho đã biết hát giao duyên, hát đối đáp để kết bạn, biết thổi khèn môi, khèn bầu và sử dụng các loại đàn, sáo; biết đánh cồng chiêng, biết hòa mình vào những điệu múa tập thể trong các lễ hội Mừng lúa mới, mừng nhà mới hay cúng tạ thần linh…”.
Đến tuổi xế chiều, khi đã là chủ gia đình thì người Cơ Ho biết hát đối đáp để mời khách vào nhà, mỗi khi có khách đến chơi. Lúc về già lại ngồi bên bếp lửa vừa uống rượu cần vừa hát kể chuyện cho cháu, con.
Có thể nói trong suốt cuộc đời, người Cơ Ho đều được tắm mình trong suối nhạc, dân ca. Dân ca của dân tộc này gồm có bốn loại: Hát giao duyên, hát kết bạn, hát ru con và một số bài hát dành riêng cho đám hỏi, đám cưới.
Ngoài các loại hình nghệ thuật biểu diễn, người Cơ Ho còn có rất nhiều lễ hội lớn trong năm, như lễ mừng lúa trổ bông hay lễ cúng thần lửa. Trong đó, Lễ mừng lúa trổ bông thường được tổ chức vào tháng 7 hàng năm. Lễ được tổ chức trong một ngày với nhiều nghi thức khác nhau tại một mảnh đất bên cánh đồng lúa của dân làng. Sau đó mỗi gia đình cũng tự tổ chức lễ tại nhà của mình.
Tại sân làng, người ta chuẩn bị sẳn bàn thờ cúng Giàng gồm các lễ vật như chuối, gà (được nhổ sạch lông, không nấu chín), bánh nếp, trứng gia cầm … và dựng nêu để đâm trâu.
Trước khi tiến hành lễ đâm trâu, già làng cùng những người có uy tín đứng thành hàng trước cây nêu,một người đại diện khấn vái cầu xin Giàng cho dân làng những mùa lúa bội thu,sau đó người thanh niên khỏe mạnh đã được chọn trước bắt đầu nghi thức đâm trâu.
Khi trâu chết, già làng lấy máu trâu bôi lên cây nêu, dân làng lấy máu trâu đựng trong ống tre hoặc bôi lên thanh tre vót nhọn có tua trắng và hình tượng cây lúa trang trí trên cây nêu, cầu Giàng phù hộ lúa không bị sâu ăn, mùa màng bội thu.
Sau khi làm thịt, đầu trâu, da, xương, móng chân, đuôi trâu ,treo ở bên dưới cây nêu 7 ngày để hiến cho thần.Sau khi đã làm các thủ tục cúng tế thần, già làng quay lại bàn thờ chính tiếp tục cầu nguyện.
Cầu khẩn xong,già làng cắt nhỏ một ít thịt trâu để lại bàn thờ cho thần thụ hưởng,số thịt còn lại được chia đều cho các gia đình và một phần để chế biến cùng nhau ăn uống. Lúc này là không khí vui nhộn nhất, mọi người cùng nhau ca hát nhảy múa, ăn thịt trâu, uống rượu cần cho đến khuya.
Cũng như trong tín ngưỡng dân gian của nhiều dân tộc khác, lửa đã thắp sáng tâm linh của người Cơ Ho bằng những giá trị thiêng liêng của nó. Họ hướng về ngọn lửa như hướng về một thế giới huyền bí từ bao đời nay giữa không gian núi rừng. Chính vì thế mà từ xa xưa người Cơ Ho đã tổ chức một buổi lễ nhằm “tôn vinh” Thần lửa.
Buổi lễ cúng Thần lửa thường được chuẩn bị từ trước đó nhiều ngày. Đêm hành lễ bắt đầu với sự tụ họp của dân làng ở nơi trang trọng nhất trong buôn. Trong buổi lễ mọi người đều hướng về phía già làng, hướng mắt về không gian thiêng và lắng nghe tiếng cầu khấn của già làng cũng là tâm nguyện của cả cộng đồng.
Sau lời khấn, chính tay già làng giết gà, trâu, heo hoặc dê hiến tế, dùng máu con vật hiến sinh bôi lên những ngọn đuốc đã được chuẩn bị chờ sẵn và cọ hai thanh tre vào nhau để phát ra ngọn lửa. Lửa từ tay người già truyền cho một chàng trai trẻ khỏe mạnh và giỏi giang. Ngọn lửa sáng lên giữa đêm trường núi rừng, thắp sáng mọi ngõ ngách tối tăm, ngọn lửa được chia về với từng bếp lửa cộng đồng. Và, thần Lửa đã chứng kiến, tiếp nhận lời khẩn cầu và cho phép đêm hội bắt đầu…
Ngày nay, mặc dù đã có sự giao lưu cùng các dân tộc khác, nhưng cộng đồng người Cơ Ho vẫn trân trọng gìn giữ nền văn hoá truyền thống, bản sắc của dân tộc mình. Mỗi thành viên của buôn làng Cơ Ho luôn có ý thức củng cố sự bền vững và đoàn kết của dòng họ, giữ gìn đất rừng, nguồn nước, những tài sản được coi là của chung, tuân thủ và thực hiện tự giác các luật tục truyền thống của tổ tiên truyền lại. Đó là điều rất đáng trân trọng.