Cùng với Cố đô Hoa Lư nổi tiếng, động Hoa Lư cũng là một trong những di tích tiêu biểu liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp của vua Đinh Tiên Hoàng. Nên ngày nay, nhiều du khách khi đi du lịch Ninh Bình sẽ lựa chọn tham quan, trải nghiệm thêm động Hoa Lư.
Nằm cách Cố đô Hoa Lư khoảng 15km và thành phố Ninh Bình 20km về phía Bắc, động Hoa Lư hay còn được gọi là Thung Lau thuộc địa bàn xã Gia Hưng (huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình) đã được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 1996, là nơi lưu giữ dấu ấn hào hùng của dân tộc cần được quan tâm, bảo tồn và phát triển.
Tuy được gọi là động nhưng di tích này lại là một thung lũng rộng khoảng 16 mẫu, nằm giữa bốn bề núi cao dựng đứng, có dạng gần tròn, đường kính khoảng 200m tạo nên một bức tường thành thiên uy nghi, sừng sững, ngăn cách động Hoa Lư với bên ngoài, trông xa như một con rồng nằm án ngữ, che chở cho căn cứ của nghĩa quân Đinh Bộ Lĩnh từ những ngày đầu non trẻ đến sự nghiệp dẹp loạn các sứ quân, thống nhất đất nước ở thế kỷ thứ X.
Động Hoa Lư ngoài tên gọi Thung Lau còn có tên gọi là Thung Ông. Cái tên Thung Ông được đặt tên theo đền thờ “thánh Ông” Nguyễn Minh Không ở trong thung xưa. Nguyễn Minh Không là một nhà sư tài danh lừng lẫy, một danh y thiên tài. Ông cũng là người đã sưu tầm, phục hưng nghề đúc đồng - tinh hoa của nền văn hóa Đông Sơn - Văn minh Việt cổ và được coi là ông tổ nghề đúc đồng.
Vào động Hoa Lư chỉ có một lối duy nhất là một quèn nhỏ cao khoảng 30m với dốc đá lởm chởm rất khó đi lại. Ngày nay, động Hoa Lư được đầu tư tu bổ và tôn tạo khang trang hơn, chính quyền địa phương đã cho xây dựng một con đường với khoảng 240 bậc đá uốn lượn thành 9 khúc (Tượng trưng cho hình tượng Rồng). Bao bên ngoài động là đầm Cút, dài khoảng 3 km rộng 500m, như con hào thiên nhiên chắn giữ. Từ đây có thể tiến ra sông Đáy.
Động Hoa Lư nằm gần đường Thượng đạo, một con đường cổ, ra bắc vào nam. Theo Phan Huy Chú (Lịch triều hiến chương loại chí) thì, thời Lê - Trịnh bình quân Mạc thường đi theo con đường này. Cách độ 2 km là sông Bôi (Từ Hòa Bình đổ về), từ động Hoa Lư, ra sông Hoàng Long, rồi ra sông Đáy để ra biển Đông hay từ sông Đáy ra sông Hồng để lên Thăng Long, hoặc từ động Hoa Lư theo sông Bôi để lên tây bắc rất thuận lợi. Động Hoa Lư tuy là địa bàn hẻo lánh, nhưng là một địa bàn có núi rừng hiểm trở, đường thủy, đường bộ thuận tiện cho việc “lui có thể thủ, tiến có thể công”.
Trên núi và dưới chân núi từ xưa tới nay đều có rất nhiều hoa lau, đến mùa (khoảng tháng 10) hoa nở trắng muốt cả một vùng, người ta lại nghe như văng vẳng đâu đây tiếng reo hò tập trận của lũ trẻ chăn trâu.
Theo truyền thuyết, thuở nhỏ Đinh Bộ Lĩnh chăn trâu cùng lũ trẻ ở đây thường bầy binh tập trận lấy bông lau làm cờ. Lũ trẻ thường tôn Bộ Lĩnh làm chủ soái tổ chức nghi lễ đưa rước rất oai vệ. Người dân địa phương còn truyền tụng câu ca:
Trần ai, ai biết, ai đâu
Hoa Lư có đám trẻ trâu anh hùng
Cờ lau tập trận vẫy vùng
Làm cho mầm Lạc, chồi Hồng vẻ vang
Đại Việt sử ký toàn thư NXB Văn học - Hà Nội năm 2009 trang 126 chép rằng: “Vua lúc còn nhỏ, cùng với lũ trẻ chăn trâu ở ngoài đồng, lũ trẻ tự biết kiến thức không bằng vua, cùng nhau tôn làm trưởng. Phàm khi chơi đùa, tất bắt chúng khoanh tay làm kiệu để khiêng và lấy hoa lau làm cờ đi hai bên để rước như là nghi vệ thiên tử.
Ngày rỗi sang đánh trẻ con thôn khác, đến đâu chúng đều sợ phục, rủ nhau hàng ngày đến kiếm củi, thổi cơm để phục dịch. Bà mẹ thấy thế mừng lắm, mổ lợn của nhà cho chúng ăn. Phụ lão các sách bảo nhau rằng: “Đứa trẻ này khí độ như thế, tất sẽ làm nên việc, bọn chúng ta nếu không theo về, ngày sau hối không kịp”. Bèn đem con em đến theo, rồi lập làm trưởng,...”.
Nằm ở giữa động Hoa Lư là ngôi đền nhỏ 3 gian thờ vua Đinh Tiên Hoàng và hội đồng văn võ triều Đinh. Chính giữa trên cao có bức đại tự ghi 3 chữ Hán “Hoa Lư động” (Động Hoa Lư) bằng khảm trai, không rõ niên đại. Phía trước ban thờ người ta cắm một bình hoa lau rất lớn để ghi nhớ về một loài cây đã gắn liền với Đinh Bộ Lĩnh từ thuở ấu thơ, từ buổi “tập trận cờ lau” để đi đến hoàn thành một sứ mệnh thiêng thiêng, một sự nghiệp vĩ đại ở tuổi trưởng thành.
Đền xây trên nền dinh luỹ xưa kia của ông, cũng là trên nền ngôi đền cũ được xây dựng cách đây trên 300 năm. Năm 2007 ngôi đền được tiến hành tu sửa và xây dựng với quy mô lớn hơn. Trong đền người có một tấm biển gỗ khắc bài thơ bằng chữ Hán của tri phủ Nho Quan Lã Xuân Oai, làm năm Tự Đức Tân Mùi (1871), mô tả quang cảnh động Hoa Lư. Nguyên văn như sau:
Kiến thuyết Hoa Lư động
Phiêu phiêu phỏng thử du
Sơn lam cửu tiêu yết
Miếu mạo độc thanh u
Thương thúy quần phong bích
Cam hàn nhất giản lưu
Hà năng tĩnh biên cản
Lãm tận cổ hoàng đô
Tạm dịch là:
Nghe nói Hoa Lư động
Xăm xăm tìm lối tới
Núi non lâu vắng vẻ
Đền miếu vẫn thanh u
Liền ngọn đá xanh cao
Một dòng nước lạnh chảy
Cõi bờ lo yên ổn
Xem hết Hoàng đô xưa
Phía sau đền vua Đinh là đền thờ Thánh Nguyễn Minh Không, tượng Nguyễn Minh Không được làm bằng gỗ, đặt trong khám ở hậu cung với phong cách mỹ thuật khoảng cuối thế kỷ XVIII.
Hàng năm, cứ mỗi dịp Xuân về, nơi đây thực sự là một điểm du lịch tuyệt vời trở về với cội nguồn dân tộc – nơi cha ông ta đã đấu tranh kiên cường chống giặc ngoại xâm, mở mang bờ cõi. Nhiều con em địa phương, du khách thập phương tìm về đây, vừa là để chiêm bái, vừa là để tri ân, tưởng nhớ đến bậc quân vương huyền thoại sinh ra trên đất Cố đô địa linh, nhân kiệt và để cầu mong cho quốc thái dân an, cho một cuộc sống thanh bình, tươi đẹp.