Trong đời sống tín ngưỡng của cộng đồng người Ba Na, cây nêu là một biểu tượng văn hóa thiêng liêng, chiếm vị trí quan trọng trong hệ thống các nghi lễ cổ truyền. Đồng bào quan niệm cây nêu là chiếc cầu kết nối bầu trời và mặt đất, thể hiện khát vọng vươn tới của người Ba Na.
Trên dải đất hình chữ S, đồng bào Ba Na không ngừng sáng tạo, bảo tồn và phát triển những nét văn hóa độc đáo trong đời sống sinh hoạt, tín ngưỡng của dân tộc mình. Họ vẫn còn lưu giữ nhiều giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc thể hiện trong tất cả các mặt đời sống xã hội như: Luật tục, tổ chức cộng đồng, hôn nhân - gia đình, nhà ở, đời sống văn nghệ, ẩm thực...
Trong đó, cây nêu có vị trí rất quan trọng đối với người Ba Na, tỉnh Kon Tum nói riêng, dân tộc Ba Na nói chung. Cây nêu không chỉ được đặt ngay trước nhà Gươl, mà còn là một biểu tượng trung tâm và không thể thiếu trong các hoạt động văn hóa cộng đồng, nghi lễ của người Ba Na.
Cây nêu có trong văn hóa của nhiều cộng đồng dân tộc Việt Nam. Mỗi dân tộc có hình thức cây nêu riêng và ý nghĩa khác nhau. Với người Việt, cây nêu là một cây tre có chùm lá và ngọn, trên có treo phướn và khánh đất, lồng đèn và cờ hội… dùng để xua đuổi tà ma, được dựng lên trong dịp Tết và các lễ hội lớn. Còn với người Ba Na, cây nêu có hình thức hết sức cầu kỳ, được trang hoàng như một tác phẩm nghệ thuật dân gian và ý nghĩa biểu đạt cũng rất đa dạng.
Đối với đồng bào Ba Na, hình ảnh cây nêu, ghè rượu, cồng chiêng, là những thứ không thể thiếu trong những hội hè, lễ, Tết. Trải qua bao thế hệ, in sâu trong tiềm thức của người Ba Na, cây nêu được ví như biểu tượng của sức mạnh, sự giàu có trường tồn. Trong tín ngưỡng của người Ba Na, cây nêu còn có ý nghĩa tâm linh - nơi giúp người làng tiến gần hơn với thế giới của các vị thần.
Cây nêu của đồng bào Ba Na thường cao khoảng 20 m và được trang trí các hoa văn, thể hiện sự mong ước của bà con buôn làng. Phần gốc nêu có 12 cây nhỏ (cao khoảng 4m làm bằng cây tre), nhằm mục đích giữ cho cây nêu được chắc chắn khi cột trâu, lấy vỏ cây buộc cây nêu với các cây nhỏ tạo ra sự gắn kết, chắc chắn.
Ở giữa cây nêu là những cây móc (rờ vin) làm bằng cây le, tỏa ra các hướng, với hy vọng cầu mong sức khỏe, an lành. Với cộng đồng Ba Na, ngoài ngày lễ, tết, cây nêu không thể thiếu trong các lễ hội lớn của cộng đồng như lễ đâm trâu, mừng chiến thắng, mừng nhà mới, lễ cúng mừng người ốm vừa khỏi bệnh... Người nào hiểu được phong tục của người Ba Na, thì chỉ cần nhìn vào cây nêu sẽ biết được buôn làng đang chuẩn bị lễ hội gì.
Chẳng hạn như ở lễ hội đâm trâu, cây nêu thường được làm 12 móc (giết bò làm 8 móc và giết dê thì làm 4 móc). Trên đầu mỗi cây móc được trang trí các dây tua làm bằng tre hoặc dây rừng và đầu các tua được nhuốm màu: Đỏ, đen, trắng, vàng là màu sắc chủ đạo trong nghệ thuật điêu khắc của cộng đồng Ba Na.
Thân cây nêu còn được trang trí các tua bằng tre, rủ xuống che kín thân cây nêu và tạo thành hình lọng che. Các nghệ nhân Ba Na bằng bàn tay khéo léo đã đẽo, gọt, vẽ, tô màu tạo nên hình tượng đa dạng mang nhiều nét riêng của đại ngàn và thể hiện niềm tin tâm linh.
Trên ngọn cây nêu các nghệ nhân trang trí những bông hoa (pai) làm từ nõn cây nứa. Những chiếc diều (Klang pa), với họa tiết hình tam giác cân, để những lúc gió thổi nó sẽ quay và phát sáng để báo hiệu sự có mặt của Yàng và thần linh. Còn hình con cá (Ktica) chuyển tải ước mong của bà con về cuộc sống no đủ.
Theo quan niệm của người Ba Na, việc dựng cây nêu cao lớn giữa làng cũng là lời khẳng định địa vị và khu vực cư trú đông đảo của họ. Lúc cây nêu được dựng lên, tất cả những hoạt động của cả buôn làng đều phải dừng lại để chuẩn bị cho tế lễ.
Điều đặc biệt, cây nêu chỉ do nam giới đảm nhận. Nữ giới tuyệt đối không tham gia vào bất cứ công đoạn nào khi làm cây nêu. Sau khi các công đoạn lắp ráp đã hoàn tất, cả làng chung tay dựng nêu. Với sự linh thiêng và cao quý đó nên không phải ai cũng làm được cây nêu mà chỉ những người có tài, có đôi tay khéo léo mới làm được.
Khi cây nêu được dựng lên, tất cả mọi hoạt động lao động khác đều dừng lại. Con người yên tâm vui chơi, cả cộng đồng sinh hoạt vui vẻ. Theo truyền thống, khi trâu đã cột chặt vào cây nêu thì mọi thành viên trong cộng đồng sẽ hòa nhập vào lễ tế linh thiêng. Họ cùng đánh chiêng, nhảy múa theo vòng tròn ngược chiều kim đồng hồ xung quanh cây nêu - đó là chiều vận động bất tận của mặt trời, phản ánh triết lý về sự vận hành âm dương của người dân sinh sống ở Tây Nguyên. Các lễ hội thường có thể kéo dài đến mấy ngày để đồng bào vui chơi sau những tháng ngày miệt mài lao động vất vả. Họ cùng nhau đánh chiêng, nhảy múa, thể hiện tinh thần đoàn kết, gắn bó nhau và niềm vui ngày hội của người dân cả bản làng.
Ngày nay, thực hiện nếp sống văn hóa mới, tục đâm trâu bên cây nêu đã thay thế bằng một số hình thức khác, để phù hợp hơn với đời sống mới, nhưng lễ rước nêu vẫn luôn là nghi lễ đậm bản sắc văn hóa của người Ba Na, một nghi lễ thiêng liêng ẩn chứa và phô diễn nhiều tầng lớp văn hóa của người Ba Na ở vùng đất Tây Nguyên.