Đổi thay ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi
Những năm qua, công tác chăm lo đời sống nhân dân vùng đồng bào DTTS luôn được tỉnh Quảng Ninh chú trọng quan tâm. Với nguồn lực được ưu tiên cho chương trình tổng thể phát triển KT-XH bền vững vùng đồng bào DTTS, miền núi, nhiều cách làm sáng tạo, phù hợp với thực tiễn địa phương được triển khai đã góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân khu vực này, qua đó góp phần thu hẹp nhanh khoảng cách giàu nghèo và chênh lệch vùng miền, hướng tới thực hiện thắng lợi các mục tiêu tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội trên địa bàn.
“Không để ai bị bỏ lại phía sau”
Trên địa bàn Quảng Ninh hiện có 21 thành phần DTTS, với trên 162.000 người, sinh sống chủ yếu ở miền núi, biên giới, hải đảo. Với tầm nhìn chiến lược, tư duy đổi mới, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, nhiệm kỳ 2020-2025 đã xác định mục tiêu: “Huy động sức mạnh tổng hợp thúc đẩy phát triển KT-XH nhanh, bền vững, nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân; bảo đảm vững chắc QP-AN” và quan điểm “Lấy phát triển con người, bảo đảm và cải thiện dân sinh làm mục đích”.
Theo đó, tỉnh đã ban hành các nghị quyết thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia để tạo “sức bật” phát triển và nâng cao đời sống cho đồng bào DTTS, miền núi trên địa bàn. Nổi bật là Nghị quyết số 06-NQ/TU (ngày 17/5/2021) của BCH Đảng bộ tỉnh về phát triển bền vững KT-XH gắn với bảo đảm vững chắc QP-AN ở các xã, thôn, bản vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030 (Nghị quyết 06). Nghị quyết này khẳng định quan điểm nhất quán trong chỉ đạo thực hiện các chính sách dân tộc và đầu tư phát triển đối với vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo, gắn với thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân.
Tới nay, các địa phương trên địa bàn tỉnh đang triển khai hiệu quả Nghị quyết 06, với sự thống nhất, đồng lòng, quyết tâm cao và cách làm chủ động, sáng tạo, đột phá. Điển hình như TP Hạ Long hiện có 11/12 xã thuộc vùng đồng bào DTTS với hơn 34.000 người. Thời gian qua thành phố đã ưu tiên dành hơn 2.500 tỷ đồng để đầu tư, xây dựng 45 công trình hạ tầng, thiết yếu, động lực. Trong đó, có nhiều công trình giao thông huyết mạch, kết nối trung tâm thành phố với các xã vùng cao, như tuyến đường nối từ QL279 (xã Tân Dân) đến đường tỉnh 291 (thị trấn Tây Yên Tử, huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang); tuyến đường liên xã đoạn từ Mỏ Đông (xã Sơn Dương) đi qua thôn Đèo Đọc, thôn Cài (xã Đồng Lâm) đến trung tâm xã Đồng Sơn; tuyến đường từ trung tâm thành phố đi Đồng Lâm - Kỳ Thượng; tuyến đường nối từ tỉnh lộ 342 đến QL279 qua trung tâm xã Sơn Dương...
Ông Lý Tài Thông, người có uy tín thôn Bằng Anh, xã Tân Dân (TP Hạ Long) chia sẻ: Trong thôn hiện có 74 hộ, với 96% là đồng bào dân tộc Dao. Trước đây Bằng Anh từng là một trong những thôn đặc biệt khó khăn, tỷ lệ nghèo còn cao, nhưng đến năm 2022, nhờ sự quan tâm, đầu tư và hỗ trợ của các cấp chính quyền, thôn đã không còn hộ nghèo, hầu hết các hộ xây được nhà ở khang trang, sạch đẹp. Nhiều hộ trong thôn có xe ô tô, xe máy, phương tiện sản xuất hiện đại, thu nhập bình quân đạt khoảng 100 triệu đồng/người/năm.
Để nâng cao đời sống cho vùng đồng bào DTTS, tỉnh luôn quan tâm dành nhiều nguồn lực hỗ trợ bà con phát triển kinh tế, sản xuất để từng bước nâng cao đời sống. Một trong những giải pháp hiệu quả hỗ trợ, giúp người dân vùng đồng bào DTTS có “điểm tựa” giảm nghèo, chủ động làm kinh tế là từ nguồn vốn vay tín dụng chính sách của tỉnh. Riêng trong năm 2023, ngân sách tỉnh cấp bổ sung 110 tỷ đồng, nâng lũy kế số vốn từ ngân sách tỉnh ủy thác cho Ngân hàng CSXH chi nhánh Quảng Ninh lên 300 tỷ đồng, hoàn thành việc cấp vốn cho vay vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo cả giai đoạn 2021-2025.
Chính từ nguồn vốn vay tín dụng chính sách lan tỏa khắp mọi vùng miền của tỉnh, người dân vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo đã từng bước thay đổi tư duy về cách thức làm ăn, phát triển kinh tế, mạnh dạn đầu tư các mô hình sản xuất.
Anh Lỷ Văn Bá (xã Đồn Đạc, huyện Ba Chẽ), cho biết: Tôi được hỗ trợ vay 100 triệu đồng từ nguồn vay tín dụng chính sách, tôi đã phát triển mô hình trồng cây dược liệu, cây lấy gỗ tại địa phương để ổn định cuộc sống. Gia đình phát triển được gần 10ha trồng các loại cây với đầu ra ổn định, thu nhập khoảng 200 triệu đồng/năm. Tôi mong muốn tỉnh tiếp tục quan tâm cho người dân vùng đồng bào DTTS được vay thêm vốn để mở rộng quy mô, phát triển sản xuất, vươn lên thoát nghèo.
Đồng hành cùng người dân vùng đồng bào DTTS phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững, các địa phương còn xây dựng kế hoạch thực hiện đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp; vận động người dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, đưa giống mới và tăng cường ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Nhiều mô hình kinh tế đã cho thu nhập cao, giúp bà con yên tâm sản xuất như: Trồng rừng, trồng quế tại xã Quảng An (huyện Đầm Hà); trồng cây chùm ngây tại xã Đồng Sơn (TP Hạ Long); trồng trà hoa vàng, ba kích tím, trồng hỗn giao gỗ lim và cây dược liệu tại huyện Ba Chẽ; kinh tế hộ gia đình kết hợp trồng quế và nuôi gà tại xã Đại Dực (huyện Tiên Yên)...
Thêm động lực giảm nghèo
Với sự quan tâm và dành nhiều nguồn lực cho sự phát triển, đời sống của người dân vùng đồng bào DTTS trên địa bàn tỉnh có sự thay đổi rõ rệt về mọi mặt. Hết năm 2023, Quảng Ninh không còn hộ nghèo theo chuẩn nghèo của Trung ương; toàn tỉnh không còn nhà tạm, nhà ở dột nát; không còn xã đặc biệt khó khăn theo tiêu chí mới của Trung ương. 99,9% số hộ dân vùng nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh; tỷ lệ hộ nghèo và tỷ lệ hộ DTTS sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 100%; tỷ lệ hộ DTTS sử dụng nước sạch theo Quy chuẩn QCVN 01-1:2018/BYT đạt 67,17%; trên 90% số rác thải sinh hoạt của người dân tại các xã vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo được thu gom, xử lý theo quy định, đảm bảo vệ sinh môi trường; 100% xã vùng đồng bào DTTS đạt phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi và đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 2; tỷ lệ đồng bào DTTS có BHYT đạt trên 98%…
100% thôn trên địa bàn tỉnh đã được phủ sóng điện thoại di động, xóa “vùng lõm” sóng ở các khu vực có dân cư sinh sống; 100% hộ DTTS được bảo đảm hạ tầng để xem truyền hình, nghe đài phát thanh quốc gia và của tỉnh; 100% hộ dân trên địa bàn được sử dụng điện an toàn và nâng cao chất lượng điện; các địa phương xây dựng mô hình an ninh cơ sở tại 46 xã, phường, thị trấn, trong đó có 21 xã, thị trấn thuộc vùng đồng bào DTTS và miền núi.
Hết năm 2023, thu nhập bình quân đầu người trên địa bàn tỉnh đạt 73,348 triệu đồng, cao hơn khoảng 1,23 lần so với thu nhập bình quân đầu người cả nước; cao hơn khoảng 2,8 lần so với mục tiêu chung đến năm 2025 của cả nước về nâng mức thu nhập bình quân của người DTTS.
Hiện nay, cùng với Nghị quyết 06, tỉnh cũng đã ban hành nhiều quyết định, kế hoạch để hỗ trợ, tạo điều kiện cho đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo phát triển kinh tế, như: Kế hoạch triển khai thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS, miền núi giai đoạn 2021-2025; thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2021-2025 đối với phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS, miền núi; xây dựng NTM; HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết 03/2022/NQ-HĐND quy định chính sách trợ giúp pháp lý cho người DTTS tại các xã, thôn, bản thuộc vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2022-2025...
Tỉnh cũng xây dựng, ban hành, triển khai nhiều đề án thúc đẩy phát triển toàn diện vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo, như: Phát triển Trường PTDT nội trú chất lượng cao tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2021-2025, tầm nhìn đến năm 2030; thu hút bác sĩ về làm việc tại tỉnh, nhất là bác sĩ về công tác tại vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo; bảo tồn, khôi phục và phát huy các môn thể thao dân tộc tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2020-2025, định hướng đến năm 2030; giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng đồng bào DTTS giai đoạn 2021-2025...
Thời gian tới, tỉnh tiếp tục ưu tiên dành nguồn lực lớn từ NSNN và huy động tổng thể các nguồn lực khác tập trung đầu tư, phát triển kết cấu hạ tầng giao thông chiến lược, đồng bộ, hiện đại; thúc đẩy liên kết vùng động lực với vùng khó khăn; gắn kết với các trung tâm kinh tế, trung tâm đô thị, các vùng động lực, KKT, KCN nhằm thúc đẩy phát triển nhanh bền vững; tiếp tục ưu tiên đầu tư cho hạ tầng giáo dục; đầu tư cho hạ tầng y tế cơ sở; đầu tư, nâng cấp công trình thủy lợi, công trình phòng chống thiên tai, cấp nước sinh hoạt, hạ tầng điện, viễn thông, thiết chế văn hóa... cho vùng đồng bào DTTS. Tiếp tục tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về diện mạo, tạo ra tiềm lực và động lực mới cho sự phát triển bền vững của vùng nông thôn, vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo.