Nhận thức đúng vị thế, tiềm năng của vùng Trung du và miền núi phía Bắc
Ngày 1/12 tại Hà Nội đã diễn ra hội nghị điều phối vùng Trung du và miền núi phía Bắc (TDMNPB) với chủ đề: Quy hoạch vùng TDMNPB thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Hội nghị diễn ra dưới sự chủ trì của Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, Phó chủ tịch thường trực Hội đồng điều phối vùng Trung du và miền núi phía Bắc và Bí thư Tỉnh ủy Cao Bằng Trần Hồng Minh, Bí thư Tỉnh ủy Điện Biên Trần Quốc Cường.
Phát biểu tại Hội nghị, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nêu rõ, Hội nghị hôm nay rất quan trọng để nhận thức rõ hơn nữa tầm quan trọng của công tác quy hoạch đối với sự phát triển kinh tế - xã hội; là cơ hội để chúng ta cùng rà soát ưu điểm, nhược điểm, các công việc, nhiệm vụ đã làm được, chưa làm được của công tác quy hoạch vừa qua. Qua đó, thấy được những khó khăn, vướng mắc, từ đó xác định những định hướng và giải pháp phù hợp trong thời gian tới.
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, để hoạch định chiến lược phát triển dài hạn cho vùng, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TW về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Chính phủ ban hành Nghị quyết số 96/NQ-CP về Chương trình hành động triển khai thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Đặc biệt, hiện nay đã có 108/111 quy hoạch thuộc hệ thống quy hoạch quốc gia theo Luật Quy hoạch đã thẩm định xong; trong đó, có 17 quy hoạch ngành quốc gia và 8/14 quy hoạch tỉnh thuộc vùng Trung du và miền núi phía Bắc đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Vùng Trung du và miền núi phía Bắc là địa bàn đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, là “phên dậu”, cửa ngõ phía Bắc của quốc gia và có vai trò quyết định đối với nguồn năng lượng, nguồn nước và môi trường sinh thái của cả vùng Bắc Bộ. Tuy nhiên, tư lệnh ngành kế hoạch và đầu tư cho rằng, thách thức có nhiều, nhưng cơ hội cũng không ít để phát triển vùng Trung du và miền núi phía Bắc và càng quan trọng hơn đó là việc nhận thức đúng về vị thế, đặc trưng, tiềm năng và thách thức của vùng Trung du và miền núi phía Bắc.
Theo đó, các cơ hội có thể kể đến như: sự đa dạng sắc tộc, coi sự đa dạng này là một lợi thế trong kinh tế sáng tạo, xu hướng phát triển thuận thiên, chuyển đổi xanh, tuần hoàn, tín chỉ carbon; chuyển dịch chuỗi cung ứng tới Việt Nam. Khả năng thu hút đầu tư vào ngành mới do nâng cấp quan hệ đối tác; các xu hướng du lịch quốc nội và quốc tế; cũng như cơ chế, chính sách từ Trung ương để thúc đẩy các nền tảng hạ tầng cho phát triển.
Trên cơ sở đó, Quy hoạch vùng Trung du và miền núi phía Bắc đã nghiên cứu và đưa ra những nhận diện, đề xuất có tính mới, có thể tóm gọn thành 6 nội dung trọng tâm, đó là:
Thứ nhất, quy hoạch vùng Trung du và miền núi phía Bắc đã đề xuất phân vùng thành các tiểu vùng chi tiết hơn để tạo ra các khu vực có liên kết chặt chẽ và có khả năng chia sẻ hạ tầng hiệu quả hơn.
Theo đó, đã làm rõ cấu trúc phát triển tổng thể của vùng với 4 tiểu vùng - 6 hành lang kinh tế - 3 vành đai và hệ thống các cực tăng trưởng, các trung tâm gắn với các tiểu vùng và vùng.
Quy hoạch vùng Trung du và miền núi phía Bắc đã làm rõ phương hướng phát triển của mỗi hành lang, vành đai, các cực tăng trưởng đã được xác định theo Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị và bổ sung hai cực tăng trưởng cũng như cụ thể hóa định hướng phát triển các ngành, lĩnh vực có lợi thế của vùng.
Thứ hai, đề ra chiến lược vùng về sinh thái và môi trường, với quan điểm xác định cảnh quan hùng vĩ, môi trường trong lành và một hệ thống rừng quy mô lớn là đặc trưng nổi bật của vùng.
Đây vừa là tiềm năng nổi bật để thu hút du lịch và kiến tạo môi trường sống chất lượng cao, vừa là nền tảng cho vai trò quốc gia trọng yếu của vùng là "phên dậu" của đất nước, là nơi bảo vệ đa dạng sinh học và rừng đầu nguồn.
Những đặc trưng này phải được phản ánh trong các mục tiêu phát triển của vùng, là kim chỉ nam định hướng cho các ngành kinh tế trong vùng như: Hình thành các hành lang phát triển sinh thái liên tỉnh, liên vùng thông qua kết nối những khu vực sinh thái trọng điểm và rừng phòng hộ bằng những hành lang xanh, cải thiện dịch vụ rừng và bảo vệ đa dạng sinh học.
Thứ ba, có chiến lược vùng để bảo tồn, phát huy sự đa dạng văn hóa và phát triển nguồn nhân lực. Đây vốn là tiềm năng cho sự phát triển bởi tạo nên sức hấp dẫn cho du lịch và sự giàu có của các nguồn tri thức truyền thống nhưng đồng thời đưa ra những thách thức trong việc phổ cập các chương trình giáo dục và đào tạo.
Do đó, việc phát triển và khai thác nguồn nhân lực phải đi liền với bảo tồn và khai thác các giá trị văn hóa bản địa - là một trong ba khâu đột phá bên cạnh hạ tầng, kinh tế và môi trường.
Phát triển các ngành kinh tế dịch vụ và thủ công nghiệp cần gắn liền với phát huy và bảo tồn đặc trưng các dân tộc, các địa phương, liên kết du lịch giữa các địa phương, các tiểu vùng trên cơ sở tài nguyên du lịch nổi bật và hệ thống giao thông kết nối.
Phát triển đô thị cần phát huy được bản sắc và tiềm năng riêng của địa phương, tránh trở thành các phiên bản chưa hoàn thiện của đô thị miền xuôi về mặt kiến trúc, cảnh quan, dẫn đến sự kém hấp dẫn về chất lượng sống và chất lượng không gian cho cư dân và du khách.
Thứ tư, nông nghiệp là trụ cột phát triển kinh tế quan trọng của vùng, cần được phát triển theo hướng bền vững hơn, tránh theo xu hướng tối đa hóa sản lượng, quan tâm hơn đến chất lượng, hiệu quả.
Khuyến khích sản xuất nông nghiệp tập trung và theo hướng hàng hóa đồng thời kết hợp với công nghiệp chế biến tại những khu vực có quỹ đất canh tác lớn và kết nối giao thông thuận lợi để tạo giá trị kinh tế lớn.
Khuyến khích nông nghiệp truyền thống, đặc sản, hữu cơ có giá trị cao ở những khu vực có quỹ đất hạn chế và đặc trưng văn hóa nổi bật để có thể kết hợp với du lịch trải nghiệm.
Thứ năm, tăng cường tỷ trọng cơ cấu các ngành phi nông nghiệp, phát triển công nghiệp và dịch vụ với các quy mô phù hợp địa phương, nhất là công nghiệp chế biến và dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp tại chỗ, hình thành các chuỗi giá trị nông nghiệp hoàn thiện, và tối ưu hóa thu nhập cho người dân và doanh nghiệp.
Tập trung phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo tại khu vực động lực là vành đai công nghiệp Thái Nguyên, Bắc Giang, Phú Thọ. Trong đó, xây dựng Bắc Giang thành trung tâm công nghiệp bán dẫn của vùng và một trong trung tâm công nghiệp bán dẫn của cả nước. Nghiên cứu khả năng khai thác, chế biến sâu đất hiếm phục vụ cho công nghiệp bán dẫn và xuất khẩu.
Phát triển các khu cửa khẩu Lào Cai, Hữu Nghị trở thành trung tâm thương mại – dịch vụ, trung tâm logistics của vùng và cả nước với kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại. Phát triển du lịch đặc trưng gắn với sinh thái, văn hóa, lịch sử và sự liên kết giữa các tiểu vùng trên cơ sở liên kết về tài nguyên du lịch nổi bật và hệ thống giao thông kết nối.
Thứ sáu, kết cấu hạ tầng của vùng cần được dần dần hoàn thiện tương xứng với yêu cầu phát triển. Kết nối hạ tầng giao thông nội vùng, liên vùng cần được đầu tư để đảm bảo việc lưu thông, vận chuyển người và hàng hóa, giảm sự cách biệt lớn giữa các địa phương trong vùng.
Ưu tiên phát triển, hoàn thiện các tuyến cao tốc xương sống của mỗi tiểu vùng, nâng cấp kết nối Đông - Tây. Nghiên cứu mở kết nối quốc tế qua Lào, bổ sung tuyến cao tốc và đường sắt trong vành đai giữa, bổ sung đường kết nối về phía biển nhằm liên kết nhanh nhất các tỉnh vùng núi xa xôi với vùng ven biển, các sân bay, cảng và các cửa khẩu quan trọng, trong đó ưu tiên nâng cấp các tuyến đường sắt liên vận với Trung Quốc qua cửa khẩu Lào Cai và cửa khẩu Hữu Nghị…
Trên cơ sở ý kiến của Hội đồng điều phối vùng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ tập trung nghiên cứu, tiếp thu và hoàn thiện hồ sơ Quy hoạch vùng để sớm tổ chức thẩm định và trình phê duyệt theo quy định.