Hò bả trạo: Nét văn hóa nghệ thuật đặc sắc của ngư dân Quảng Nam

16/09/2021 03:50

(DTTG) Hò bả trạo là một loại hình nghệ thuật diễn xướng dân gian mang đậm tính nghi lễ của cư dân vùng biển Trung Bộ. Được tổ chức theo tục lệ hàng năm hoặc 2 - 3 năm một lần nhân dịp lễ tế cá Ông (hoặc lễ nghinh Ông) còn được trình diễn nhân dịp đưa tang cá Ông (cá voi) và trong các lễ hội cầu mùa của ngư dân.

Hát bả trạo trong lễ hội cầu ngư truyền thống.(Ảnh: Internet)
Hát bả trạo trong lễ hội cầu ngư truyền thống.(Ảnh: Internet)

Hò bả trạo còn gọi là hát bả trạo là một loại dân ca nghi lễ của cư dân ven biển từ Bình Trị Thiên đặc biệt là từ Quảng Nam - Đà Nẵng cho tới Bình Thuận. Ðây là một tiết lễ gắn liền với chu kỳ đánh bắt thủy, hải sản và các lễ diễn ra trong năm như: Nghi thức cúng đầm, lễ ra nghề, lễ tế đình làng, lễ thanh minh...

Hát bả trạo có nghĩa là hát có kèm theo động tác múa với đạo cụ là mái chèo, trong đó “bả” có nghĩa là nắm chắc, “trạo” có nghĩa là mái chèo cùng với những cảnh múa thể hiện những sinh hoạt, lao động của ngư dân như: Chèo thuyền, kéo lưới hoặc đặc tả cảnh đưa rước linh hồn các "Ðức ông" cùng những người chết sông, chết biển về nơi yên nghỉ. 

Nội dung hát bả trạo ca ngợi công đức của cá Ông cứu người, giúp đánh bắt được nhiều cá tôm hoặc mô tả quá trình lao động vất vả của ngư dân giữa biển khơi, đồng thời ca ngợi sự giàu có của biển và trên hết là sự đoàn kết của bạn chèo vươn tới cuộc sống ấm no đầy đủ. Có thể nói, hát bả trạo gắn liền với nghi lễ, bởi vì khi tham gia hát bả trạo tất cả mọi người, từ diễn viên đến khán giả đều cầu mong cho sự bình yên, thịnh vượng - từ lòng sùng kính đối với cá Ông.

Tổng mũi Trần Văn Tám biểu diễn bả trạo trong lễ cầu ngư.(Ảnh: Internet)
Tổng mũi Trần Văn Tám biểu diễn hò bả trạo trong lễ cầu ngư.(Ảnh: Internet)

Thành viên của đội hát bả trạo gồm có: Tổng Mũi, Tổng Khoang và Tổng Lái cùng khoảng 10 đến 16 con trạo tùy theo sự tổ chức của từng địa phương, nhưng phải luôn luôn số chẵn.

Về trang phục: Tổng Lái thông thường mặc lễ phục cổ truyền áo dài đen, quần dài trắng, khăn đóng đen. Tổng Mũi cũng ăn mặc giống như Tổng Lái, nhưng cũng có khi Tổng Mũi mặc một bộ đồ màu sắc rực rỡ như một diễn viên tuồng, tay cầm cặp sênh điều khiển. Còn Tổng Khoang mặc áo ba màu, quần ngắn, tay cầm gàu tát nước. Những người tham gia còn lại lập thành đội chèo. Tùy từng địa phương, mỗi đội chèo thường có từ 12 đến 16 người, cũng có khi lên đến 18 hoặc tối đa là 20 người và đặc biệt là số người tham gia đội chèo bao giờ cũng là số chẵn để cho cân xứng và trình diễn dễ dàng hơn. Các con trạo thì mặc áo trắng, quần trắng (có quấn xà cạp) đầu chít khăn, lưng thắt vải đỏ, chân đi đất, tay cầm mái chèo dài 1m20, sơn đen trắng.

Về nhạc cụ của hát bả trạo có đàn cò, trống, kèn và sênh.

Hàng giữa từ gần ra xa: Tổng mũi – Tổng khoang – Tổng lái. (Ảnh: Báo Bình Thuận).
Hàng giữa từ gần ra xa: Tổng mũi – Tổng khoang – Tổng lái. (Ảnh: Báo Bình Thuận).

Nghệ thuật trình diễn và hát bả trạo là sự phối hợp nhịp nhàng giữa âm nhạc, lời ca và động tác trình diễn của Tổng Mũi, Tổng Khoang và Tổng Lái cùng đám bạn chèo dưới sự điều khiển thống nhất của Tổng Mũi.

Các dân tộc Việt Nam nói chung, cư dân ven biển nói riêng còn bảo lưu được khá đậm yếu tố văn hóa cội nguồn từ tín ngưỡng tục thờ cá Ông trong lễ hội Cầu ngư - hát bả trạo. Suốt quá trình tồn tại và phát triển, họ đã sáng tạo cho mình những giá trị văn hóa phi vật thể chứa đầy “chất biển” luôn phù hợp với mọi điều kiện tự nhiên, môi trường xã hội, đó là: các thế ứng xử, lối sống, phong tục tập quán, lễ hội, tôn giáo tín ngưỡng... mang đậm sắc thái đặc trưng của văn hóa vùng, miền.

Nội dung bài hát, bổn chèo cổ, bản hò ở mỗi nơi có sửa đổi, thêm bớt khác nhau theo ngôn ngữ, điều kiện sống và sinh hoạt. Tuy nhiên nó vẫn giữ được nét đặc sắc chung, tâm linh của hát bả trạo trong lễ hội Cầu ngư.

Thời lượng trình diễn vở tuồng hát múa bả trạo khoảng 70 phút. Ngoài ý nghĩa biểu dương công đức cũng như tỏ lòng thương tiếc của ngư dân đối với Nam Hải Thần Ngư (cá Ông), nghệ thuật hát múa bả trạo còn mang một nội dung khác không kém phần quan trọng, là dịp thể hiện những tâm tư, tình cảm của ngư dân trước cuộc sống đầy thách thức của biển cả mênh mông. Hay nói cách khác, hát múa bả trạo nhằm phản ánh ước vọng một cuộc sống an lành, no đủ cho cộng đồng cư dân miền biển.

Hát bả trạo là hình thức diễn xướng dân gian xuất phát từ tín ngưỡng thờ cá ông (Đại Đức Ngư ông) của ngư dân ven biển.(Ảnh: Internet)
Hát bả trạo là hình thức diễn xướng dân gian xuất phát từ tín ngưỡng thờ cá ông (Đại Đức Ngư ông) của ngư dân ven biển.(Ảnh: Internet)

Lễ hội cầu ngư, hát múa bả trạo ở Quảng Nam là hoạt động nghệ thuật đặc trưng không chỉ phản ánh đời sống sản xuất, mà còn là cách để người dân lao động giải trí, tâm tình sau một mùa làm việc mệt nhọc trên biển cả. Bên cạnh đó, hò bả trạo còn là một phần của văn hóa dân gian, tuy mang tính nghi lễ nhưng vẫn cung cấp được tài liệu quý báu về phong tục, tập quán và nghệ thuật.

Chính vì những yếu tố nhân văn, sức lan tỏa trong cộng đồng dân cư và là một trong những nghệ thuật trình diễn dân gian tiêu biểu, thể hiện được bản sắc của cộng đồng, phản ánh được sự đa dạng văn hóa, sự sáng tạo của con người cùng với sự kế tục qua nhiều thế hệ, có khả năng phục hồi và tồn tại lâu dài..., nghệ thuật diễn xướng hát múa bả trạo của các cộng đồng dân cư miền biển Quảng Nam đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào tháng 9/2013.

Đinh Ngọc