Độc đáo Lễ hội đền Mưng
(DTTG) Đền Mưng - nơi thờ Thánh Lưỡng Tham Xung Tá Quốc, húy danh Lê Hữu - con trai út của Lê Ngọc, làm Thái thú quận Cửu Chân dưới thời Tùy Đại Nghiệp, vì không phục nhà Đường mà cố kết lòng dân chống Đường. Để ghi nhớ công lao của cha con ông người dân trong vùng đã lập đền thờ để hương khói.
![]() |
Nghi thức rước cỗ trong Lễ hội đền Mừng. |
Tương truyền về đền Mưng
Theo truyền thuyết, vào năm 618 Tham Xung Tá Quốc Lê Hữu - con trai út của Lê Ngọc - một quan lớn của nhà Tùy không chịu khuất phục sự thống trị hà khắc của nhà Đường. Chính ông cùng với 3 người con trai với sự ủng hộ của nhân dân trong vùng đã tụ binh khởi nghĩa. Cuộc chiến đấu vô cùng ác liệt, thế trận không cân sức nên cha và 2 anh trai của ông đã hy sinh. Với lòng căm thù, ông lên ngựa cầm quân thay cha đánh giặc. Trên đường truy kích ông đã bị quân giặc bao vây, trong một trận giao tranh sinh tử ông đã bị giặc chém rơi đầu… Ông nhặt đầu lên và tiếp tục thúc ngựa chạy về đến núi Côn Minh bên dòng Lãng Giang hét lên một tiếng, ném đầu xuống sông và hiển thánh. Người chị gái từ Nghệ An ra cứu viện, biết tin em hy sinh, bà đã gieo mình xuống dòng Lãng Giang tự vẫn để giữ trọn khí tiết, xác trôi đến ngã ba nơi hợp lưu giữa ba sông là sông Lãng, sông Hoàng, và sông Yên thuộc địa phận xã Tế Nông ngày nay thì nổi lên, được nhân dân vớt lên an táng. Ghi nhớ công ơn của cha con ông, Nhân dân trong vùng đã lập bàn thờ để hương khói. Đến thời Hậu Lê được Nhân dân xây dựng thành đền thờ gọi là đền Mưng, thuộc làng Mưng, tức làng Côn Sơn, xã Trung Thành, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa ngày nay.
Theo các bậc cao niên, xưa kia đền Mưng nguy nga đồ sộ nhất vùng. Có hậu cung chính tẩm, 5 gian tiền tế, có sân chầu, có giải vũ hai bên và tường bao quanh, có nghi môn tam quan. Sau này thực dân Pháp ném bom phá hoại trong kháng chiến. Nhưng với sự nỗ lực của địa phương khôi phục lại các hoạt động của lễ hội đền Mưng. Đến năm 1994, đền Mưng được cấp Bằng công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Khu di tích đã được đầu tư xây dựng mới 3 gian chính tẩm, 5 gian tiền đường, 3 gian nhà khách phía Tây và nâng cấp toàn bộ hệ thống khuôn viên nhà đền. Bên cạnh đó, nhân dân trong vùng cũng đã duy trì nhiều phong tục truyền thống như: việc cúng tế, hát chèo thờ trên sông và trên cạn; rước cỗ của các ngõ xóm, dòng họ, các bản hội và 5 chi kỵ trong vùng, tạo được sự gắn kết cộng đồng rộng lớn.
![]() |
Hát chèo thờ làng Mưng là tiết mục đặc sắc trong Lễ hội. |
Đặc sắc hát chèo thờ làng Mưng
Lễ hội được tổ chức hàng năm hai dịp là vào tháng Giêng và tháng Ba. Lần thứ nhất là lễ hội bơi thờ (đua thuyền trên sông Lãng đoạn gần đền Mưng); lần thứ hai là chính kỵ và lễ hội chèo thờ. Suốt thời phong kiến, đền Mưng luôn là ngôi đền được xếp vào hàng “Quốc tế” (tức được triều đình cử quan đại thần về để tế) thu hút cả một vùng rộng lớn từ Đông Sơn, Triệu Sơn, Nông Cống hướng về lễ hội. Riêng Nông Cống có tới 18 làng trực tiếp tham gia lễ hội với tất cả niềm thành kính. Lễ hội đền Mưng có nhiều văn hóa tốt đẹp, với các hình thức chèo thuyền (trong phần hội) như: chèo bơi, chèo đua, chèo cạn, chèo thờ, vừa thể hiện tính văn hóa đặc sắc qua múa hát, vừa thể hiện tinh thần thượng võ của dân tộc.
Đặc biệt là “Trò hát chèo thờ làng Mưng” từ ngày mùng 5 đến 8 tháng 3 âm lịch - một hình thức diễn xướng trong lễ hội đã trở thành môn nghệ thuật sân khấu độc đáo, riêng biệt của làng Mưng. Từ xa xưa tục chèo thờ được tổ chức 5 năm một lần. Hát chèo thờ ở đây là hát hầu Thánh và chỉ có lễ hội đền Mưng thì mới có hát chèo thờ. Với các vở chèo khá nổi tiếng như vở: Tống Trân Cúc Hoa, Thục Vân hiếu nghĩa, Tuấn Khanh, Lưu Quân Bình (bốn vở diễn này chỉ diễn ở đền Mưng trong dịp lễ Thánh). Vở diễn đưa ta về với các tích xưa, có trai tài gái sắc, đức hạnh chiến thắng xấu xa... Người dân vừa là khán giả, vừa là diễn viên biểu diễn mừng Thánh, qua đó đem lại niềm hạnh phúc sâu lắng, thiêng liêng trong cộng đồng.
Trong lễ hội, chèo thờ rước Thánh được người dân địa phương thành lập một đội chèo gồm 5 chiếc, hai chiếc Phát Đường, một chiếc đặt Hương Áng, một chiếc thuyền Thánh Ngự, một chiếc thuyền Phủ Giá. Người chèo thuyền được gọi là nữ quan. Đoàn thuyền đi đến đâu đều vang lên những tiếng hò chèo thờ đến đó. Hò chèo thờ có hai điệu là chèo khoan và chèo đấu. Điệu chèo khoan thì khoan thai, nhịp nhàng người xướng ngân nga câu lục bát và tất cả hò dậm “Huầy! Dô huầy dô ta! Hò là dô huầy!”. Ngược lại, điệu hò chèo đấu lại có nhịp khẩn trương, gấp gáp, thể hiện không khí vui tươi, nhộn nhịp của lễ hội và được đệm là “Ớ khoan”.
Khi đoàn thuyền đi đến làng nào, các nữ chèo đều có các làn điệu hát vịnh và đối đáp với Nhân dân làng đó. Ví như, khi thuyền đến bến Đông, thuộc xã Trung Chính, nữ quan sẽ hát “Thuyền Rồng đã đến làng Đông/ Con gái làng Chợ xuống sông chào thuyền”. Và khi đến làng Vặng, thuộc xã Trung Ý (nay là xã Trung Chính), nơi có Vực Si, nữ chèo sẽ hát rằng “Thuyền Rồng đã đến Vực Si/ Con gái làng Vặng làm chi ở nhà?”. Trên bờ, trai gái trong làng ra xem thuyền chải hát đối đáp lại “Làng Vặng đang xáo cỏ cà/ Nghe tiếng thuyền chải em ra mừng thuyền”. Cứ như vậy, đoàn thuyền rước Thánh Lưỡng từ đền Mưng xuống đền Tam Giang cách đó khoảng 10 km. Sau khi xuống đến đền Tam Giang, Thánh Lưỡng được rước lên đền, tổ chức tế lễ, sau đó lại được rước về đền Mưng.
Với những nét đặc sắc và độc đáo được lưu truyền bao đời, Lễ hội đền Mưng đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 4605/QĐ-BVHTTDL ngày 20/12/2019.
![]() |
Lễ hội đền Mưng được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. |