Cuộc sống đổi thay, nghề rèn đúc ở Bắc Hà (Lào Cai) cũng dần mai một, nhưng với nhiều người thì khát vọng, quyết tâm giữ lửa nghề vẫn thôi thúc từng ngày.
Đã từng có một thời, hầu hết những nông cụ sản xuất và các dụng cụ phục vụ đời sống của người dân cao nguyên trắng Bắc Hà được làm từ bàn tay của những người thợ rèn người Mông bản địa. Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, những nông cụ truyền thống ấy dần dần được thay thế bằng những thứ ra đời từ máy móc, đẹp và rẻ, nhưng trong ký ức của nhiều người vẫn không quên những dụng cụ được làm từ bàn tay khéo léo của người Mông.
Theo các vị cao niên ở Bắc Hà kể lại, nghề rèn đúc nơi đây có hàng trăm năm tuổi, tập trung vào 3 họ lớn của người Mông là họ Sùng, họ Thào và họ Vàng. Xưa kia, mỗi dòng họ chuyên tác và nổi danh nhờ một số sản phẩm tiêu biểu, như họ Sùng chuyên đúc lưỡi cày, răng bừa, cuốc; họ Thào thì nổi tiếng nhờ rèn dao, kéo… Vào thời hoàng kim, nhà làm nghề ngày đêm đỏ lửa bếp rèn, người làm rèn không hết việc. Tuy nhiên, truyền thống của đồng bào Mông chỉ truyền nghề cho con cháu trong dòng họ, trong khi giờ đây các mặt hàng kim khí được sản xuất hàng loạt từ dây chuyền công nghiệp với mẫu mã đẹp, giá rẻ khiến dòng sản phẩm rèn thủ công mất dần vị thế. Những lò rèn đúc ở Bắc Hà thưa dần, nhiều dòng họ, gia đình không thường xuyên nổi lửa, thậm chí bỏ nghề.
Để hiểu hơn về làng nghề đã có phần mai một, chúng tôi tìm về xã Bản Phố, giờ đây chỉ còn vài nhà làm rèn. Địa chỉ chúng tôi tìm tới là gia đình ông Sùng Seo Nhà, sinh năm 1952 ở thôn Bản Phố 2C - gia đình đúc lưỡi cày lâu đời hàng đầu của xã. Ông Nhà là bậc trưởng lão của nghề rèn ở Bản Phố và là truyền nhân đời thứ 3 nối nghiệp cha, ông. Trong câu chuyện, ông Nhà cho biết, những năm tháng tuổi thơ của ông gắn liền với tiếng đe, tiếng búa chát chúa, khi ông tròn 12 tuổi thì được bố truyền nghề.
Thời điểm đó, cậu bé Nhà chỉ cao ngang lưng thân cây ngô trổ bắp, sáng đi học ở trường, tối về nhà học rèn đúc lưỡi cày. Cực nhọc, gian khó nhưng cậu bé Nhà vẫn yêu nghề lắm, không kêu ca, phàn nàn bao giờ. Cuộc sống đưa đẩy, khi trưởng thành, Sùng Seo Nhà lại lựa chọn công tác trong ngành công an, chỉ đến khi nghỉ, ông mới có cơ hội dành thời gian cho nghề truyền thống của ông cha. Suốt bao năm đau đáu, ngọn lửa nghề rèn vốn âm ỉ, bập bùng nay có dịp bùng cháy.
Lò rèn của ông Nhà không cầu kỳ, chỉ có một ụ lò đất, vài cục đe và một cái bễ. Cái bễ và lò đốt là trung tâm của lò rèn. Cái bễ thổi như cái bơm khổng lồ được khoét ra từ thân cây gỗ với đường kính khoảng 50 cm. Pít tông là miếng gỗ tròn như cái thớt được gắn lông gà chung quanh để kín gió và dễ dàng dao động trơn nhẹ trong lòng thân gỗ.
Theo ông Nhà, nghề rèn đúc của đồng bào Mông ở Bản Phố nổi danh nhất là sản phẩm lưỡi cày. Công đoạn làm lưỡi cày rất công phu, các khâu đều làm thủ công. Để làm lưỡi cày cần có đất sét trắng tạo khuôn, loại đất này chỉ có ở xã Bản Liền, cách Bản Phố hơn 20 km. Khâu làm đất cầu kỳ nhất là sàng, rây mịn bằng tấm lưới sắt mắt nhỏ để loại bỏ hết các hạt sạn, sau đó trộn với bột than rồi đắp vào khuôn gỗ, lớp đất được phết dày khoảng 1 cm với độ ẩm vừa phải. Công đoạn này được làm rất tỉ mỉ, có khi kéo dài cả tuần. Mỗi bộ khuôn đúc hoàn chỉnh nặng khoảng 60 đến 70 kg, sau khi đổ 5 - 6 kg phôi gang nóng chảy vào khuôn, ông Nhà sẽ thu được một lưỡi cày có độ cong đặc trưng của đồng bào Mông vốn sử dụng nhiều trong cày nương, đồi.
Dù thị trường đã ít dùng sản phẩm lưỡi cày của đồng bào Mông và dù không đốt lò thường xuyên nhưng sản phẩm của gia đình làm ra vẫn bán hết, thậm chí khách đặt hàng còn phải chờ đợi khá lâu. Nếu dùng máy móc hiện đại vào làm rèn, năng suất cao hơn nhưng chất lượng sản phẩm không thể như làm thủ công, sản phẩm nếu bảo quản tốt, độ bền có khi lên tới chục năm.
Ông Sùng Seo Nhà
Ngoài lưỡi cày, ông Nhà còn rèn dao. Sản phẩm tốt, nhiều người đặt mua nên có thời điểm ông phải làm việc từ hừng đông đến chiều tối. Kinh nghiệm của ông Nhà để làm ra một con dao tốt, thợ cả và thợ phụ phải có sự phối hợp nhịp nhàng, lực búa giáng xuống đe thép phải đều, số nhịp phù hợp. Đồng bào Mông ở Bắc Hà dùng than củi, không dùng than đá khi rèn đúc, loại đặc biệt, có thể cho nhiệt lượng lên đến trên 1.000 độ C.
Cuộc sống đổi thay, mở ra nhiều con đường mưu sinh và vì thế, những người theo nghề rèn đúc ở Bắc Hà cũng ít dần. Với những nghệ nhân tâm huyết như ông Nhà thì khát vọng, quyết tâm giữ lửa nghề vẫn cứ thôi thúc từng ngày. “Nghề này không giúp gia đình trở nên khá giả hoặc giàu có nhưng đây là nghề của tổ tiên nên chúng tôi phải cố gắng giữ gìn. Một lưỡi cày có giá 130 nghìn đồng, chi phí nguyên - nhiên liệu đầu vào khoảng 80 nghìn đồng, tiền công chỉ 50 nghìn đồng, với lao động chính thì không thể chọn nghề này để mưu sinh” - ông Nhà bộc bạch.
Lò rèn ngày nào cũng vang tiếng búa, tiếng đe của ông Nhà giờ đã chuyển về phía sau nhà, vận động mãi cuối cùng con trai út của ông cũng nối nghiệp cha. Người trẻ nối nghiệp dù yêu nghề truyền thống nhưng vẫn phải tìm thêm công việc chính khác để nuôi sống bản thân, gia đình, lửa nghề rèn chỉ đỏ mỗi tuần một lần để giữ nghề, kỳ vọng một ngày nghề rèn đúc của cha ông trở lại huy hoàng như xưa…